Thursday 18 October 2018

Gabriel Batistuta – Wikipedia tiếng Việt


Gabriel Omar Batistuta (sinh ngày 1 tháng 2 năm 1969), quốc tịch Argentina biệt danh Vua Sư Tử, là cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp và anh là một trong những cầu thủ xuất sắc nhất trong lịch sử bóng đá Argentina nói riêng và bóng đá thế giới nói chung.

Batistuta bắt đầu sự nghiệp của mình vào năm 1988 tại câu lạc bộ hạng nhất Newell's Old Boys của Argentina. Một năm sau đó, anh chuyển đến thi đấu cho câu lạc bộ River Plate và đến năm 1990 thì anh lại đầu quân cho câu lạc bộ nổi tiếng Boca Juniors. Tại Boca Juniors, Batistuta bắt đầu thể hiện được tài năng săn bàn bẩm sinh của mình và những bàn thắng trong màu áo Boca Juniors đã đưa anh lọt vào mắt xanh của các câu lạc bộ ở châu Âu. Sau đó anh đã dành phần lớn thời gian sự nghiệp cho câu lạc bộ ACF Fiorentina của Ý. Anh cũng là tay săn bàn xuất sắc thứ 8 trong lịch sử giải đấu Serie A với 184 bàn 318 trận từ 1991 đến 2003. Ở cấp độ quốc gia, anh đã từng danh hiệu tay săn bàn xuất sắc nhất mọi thời đại của Argentina với 56 bàn trong 78 lần khoác áo đội tuyển trước khi Lionel Messi vượt qua vào năm 2016. Batistuta đã tham dự 3 kì World Cup năm 1994, 1998, 2002 và anh đã có 10 bàn thắng sau 11 trận, đồng thời trở thành cầu thủ duy nhất lập hat-trick ở 2 kỳ World Cup liên tiếp. Ngoài ra, Batistuta cũng đã giành được 2 chức vô địch Copa America cùng đội tuyển Argentina vào năm 1991 và 1993. Năm 2004, anh được chọn là một trong 125 huyền thoại sống của bóng đá thế giới bởi Pelé.

Khi câu lạc bộ Fiorentina bị xuống hạng Serie B, Batistuta đã ở lại với câu lạc bộ và giúp nó trở lại giải đấu hàng đầu 2 năm sau đó. Là một anh hùng trong lòng các cổ động viên thành Firenze, các fan của Fiorentina đã dựng một bức tượng đồng của anh năm 1996, một sự công nhận cho những đóng góp của Batistuta cho Fiorentina. Cùng với ACF Fiorentina, anh đã giành được chiếc Cúp Quốc gia ý 1996 và Siêu cúp Ý 1997. Năm 1999, anh được trao tước vị Quả bóng đồng thế giới từ FIFA. Năm 2000, anh được các cổ động viên Fiorentina bầu chọn là cầu thủ xuất sắc nhất câu lạc bộ trong thế kỷ 20. Tuy vậy, Batistuta chưa bao giờ giành được danh hiệu Scudetto nào với Fiorentina và chỉ khi anh đầu quân cho AS Roma năm 2000, anh mới giành được chức vô địch Seria A đầu tiên và cũng là cuối cùng của mình. Batistuta chơi mùa giải cuối cùng tại Qatar cho câu lạc bộ Al-Arabi trước khi giải nghệ năm 2005.





Sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]






















































































































































































































Câu lạc bộ
Mùa
Giải quốc nội
Cúp quốc gia[2]Châu lục[3]Tổng cộng
TrậnBànTrậnBànTrậnBànTrậnBàn
Newell's
1988-89
16453217
Tổng cộng
16453217
River Plate
1989-90
7474
Tổng cộng
7474
Boca Juniors
1989-90
102102
1990-91
19111092920
Tổng cộng
29131093922
Fiorentina
1991-92
2713112814
1992-93
3216213417
1993-94
2616443020
1994-95
3226343530
1995-96
3119693728
1996-97
321321754119
1997-98
3121333424
1998-99
282155213527
1999-00
302311763830
Tổng cộng
26916827291612325209
Roma
2000-01
282034213325
2001-02
2060080286
2002-03
1242161206
Tổng cộng
6030551628137
Inter
2002-03
122122
Tổng cộng
122122
Al-Arabi
2003-04
1825001825
2004-05
300030
Tổng cộng
2125002125
Career Total41424632344726493306

[4]




























Đội tuyển bóng đá Argentina
NămTrậnBàn
199176
199256
19931513
1994108
19951114
199654
199721
19981213
199922
200054
2001125
2002195
Tổng cộng10581

Quốc gia[sửa | sửa mã nguồn]


Argentina Argentina


Câu lạc bộ[sửa | sửa mã nguồn]


Argentina Boca Juniors


Ý Fiorentina


Ý Roma


Cá nhân[sửa | sửa mã nguồn]










0 comments: