Thursday, 18 October 2018

Bệnh dengue – Wikipedia tiếng Việt


Sốt xuất huyết Dengue (IPA: ['deŋgeɪ], tiếng Việt thường đọc là Đăng-gơ) (dengue fever, DF), Sốt xuất huyết Dengue (dengue hemorrhagic fever, DHF) và biểu hiện nặng nề nhất của bệnh là Hội chứng sốc Dengue (Dengue Shock Syndrome, DSS) đều được gây nên bởi một trong bốn loại huyết thanh virus gần gũi nhưng lại khác nhau về mặt kháng nguyên là DEN-1, DEN-2, DEN-3DEN-4. Virus này thuộc chi Flavivirus. Nhiễm một loại virus có khả năng tạo nên miễn dịch suốt đời nhưng chỉ chống lại chính loại huyết thanh virus đó mà thôi. Chính vì vậy mà những người sống trong vùng lưu hành dịch Dengue có thể mắc bệnh nhiều hơn một lần trong đời.

Sốt Dengue và Sốt xuất huyết Dengue chủ yếu là bệnh ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Nhiễm virus Dengue gây nên triệu chứng lâm sàng khác nhau tùy từng cá thể. Bệnh có thể chỉ biểu hiện như một hội chứng nhiễm virus không đặc hiệu hoặc bệnh lý xuất huyết trầm trọng và đưa đến tử vong (1). Trong bài này, thuật ngữ Dengue được sử dụng để chỉ chung cho ba thể bệnh nêu trên. Khi nói đến từng thể riêng biệt thì tên chính xác của thể bệnh đó sẽ được sử dụng.

Có thể nói Dengue là một bệnh truyền nhiễm lây truyền do muỗi thường gặp nhất ở người. Trong những năm gần đây bệnh đã trở thành mối quan ngại lớn đối với sức khỏe cộng đồng trên bình diện quốc tế. Trên toàn thế giới có khoảng 2,5 tỷ người hiện đang sống trong vùng có lưu hành bệnh. Sự lan tràn về mặt địa lý của cả vector truyền bệnh là muỗi và virus đã đưa đến sự tăng cao tỷ lệ bệnh trong vòng 25 năm qua cũng như khả năng xuất hiện dịch do nhiều loại huyết thanh khác nhau ở các đô thị trong vùng nhiệt đới (2).

Muỗi vằn là vật trung gian truyền bệnh, đây là loại muỗi sống ở những nơi bùn lầy nước đọng chung quanh nhà, hoặc các nơi ẩm thấp tối tăm trong nhà. Biểu hiện là xuất huyết da, niêm mạc và trụy tim mạch, dễ đưa đến tử vong nếu điều trị không kịp thời và không đúng mức.





Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]


Dịch sốt dengue trên toàn thế giới, 2006. Đỏ: dịch dengue. Xanh: Aedes aegypti.

Những vụ dịch đầu tiên được ghi nhận xảy ra vào những năm từ 1778-1780 ở châu Á, châu Phi và Bắc Mỹ. Sự xuất hiện gần như đồng thời của các vụ dịch trên ba lục địa khác nhau chứng tỏ rằng virus gây bệnh cũng như vector truyền bệnh đã phân bố rộng rãi trên toàn thế giới đã từ hơn 200 năm trước. Trong thời gian này Dengue chỉ được xem là bệnh nhẹ. Một vụ đại dịch Dengue xuất hiện ở Đông Nam Á sau Chiến tranh thế giới thứ II và từ đó lan rộng trên toàn cầu. Cũng ở khu vực Đông Nam Á, Dengue lần đầu tiên được phát hiện ở Philippines vào năm 1950 nhưng đến năm 1970 bệnh đã trở thành nguyên nhân nhập viện và tử vong thường gặp ở trẻ em trong vùng này (1).


Phân bố bệnh Dengue trên thế giới năm 2000

Xu hướng[sửa | sửa mã nguồn]


Tỉ lệ mắc bệnh trên toàn thế giới đã gia tăng mạnh mẽ trong những năm gần đây. Bệnh này hiện đã trở thành dịch tại trên 100 quốc gia ở châu Phi, châu Mỹ, khu vực phía Đông Địa Trung Hải, Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương. Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương là khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề nhất. Trước năm 1970, chỉ có 9 quốc gia có dịch lưu hành. Con số này tăng lên gấp hơn 4 lần vào năm 1995. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ước tính mỗi năm có khoảng 50 đến 100 triệu người mắc bệnh. Không chỉ có số trường hợp mắc bệnh gia tăng mà khả năng nhiễm nhiều loại virus khác nhau cũng ngày càng đáng báo động. Sau đây là một vài con số thống kê khác (3)(4):


  • Trong vụ dịch, tỉ lệ mắc bệnh ở những đối tượng nhạy cảm thường là 40-50% nhưng cũng có thể cao đến 80-90%.

  • Mỗi năm có khoảng 500.000 trường hợp Sốt xuất huyết Dengue cần nhập viện, phần lớn trong số đó là trẻ em. Tỉ lệ tử vong chung vào khoảng 2,5%.

  • Nếu không được điều trị, tỉ lệ tử vong của Sốt xuất huyết Dengue có thể vượt quá 20%. Với phương thức điều trị tích cực hiện đại, tỉ lệ tử vong có thể thấp hơn 1%.

Muỗi Aedes[sửa | sửa mã nguồn]


Người nhiễm virus Dengue do muỗi cái thuộc giống Aedes đốt. Muỗi Aedes aegypti là vector truyền bệnh chủ yếu ở hầu hết các khu vực bệnh lưu hành. Muỗi Aedes aegypti hoạt động vào ban ngày và chỉ có muỗi cái mới đốt người và truyền bệnh. Khi muỗi cái Aedes hút máu bệnh nhân nhiễm virus Dengue, virus này sẽ ủ bệnh trong cơ thể muỗi khoảng 8 đến 11 ngày. Trong khoảng thời gian sống còn lại sau đó, muỗi có nguy cơ truyền bệnh cho người. Khi virus vào cơ thể người, chúng tuần hoàn trong máu từ 2 đến 7 ngày. Trong khoảng thời gian này nếu muỗi Aedes hút máu thì virus được truyền cho muỗi. Người là ổ chứa virus chính ngoài ra người ta mới phát hiện ở Malaixia có loài khỉ sống ở các khu rừng nhiệt đới cũng mang virus Dengue.
Aedes aegypti có nguồn gốc từ châu Phi. Loài muỗi này dần dần lan tràn ra hầu hết các khu vực có khí hậu nhiệt đới đầu tiên là nhờ tàu thuyền và sau đó có thể cả máy bay nữa (5). Ngày nay có hai dưới nhóm của Aedes aegyptiAe. aegypti queenslandensis, một dạng hoang dã ở châu Phi không phải là vector truyền bệnh chính và Ae. aegypti formosus là muỗi sống ở khu vực đô thị vùng nhiệt đới và là vector truyền bệnh chính. Trong quá khứ, muỗi Aedes aegypti phải nhờ vào các vũng nước mưa để đẻ trứng. Tuy nhiên ngày nay quá trình đô thị hóa diễn ra với tốc độ ồ ạt đang cung cấp cho muỗi những hồ nước nhân tạo để muỗi đẻ trứng dễ dàng hơn nhiều.

Aedes albopictus trước đây là vector truyền bệnh chính của Dengue và hiện nay vẫn còn là vector quan trọng ở châu Á. Loài muỗi này gần đây đã lan tràn đến khu vực Trung Mỹ, Hoa Kỳ và tại đây muỗi này là vector truyền bệnh quan trọng thứ hai. Trong khi muỗi Ae. aegypti formosus chủ yếu sống ở khu vực đô thị thì muỗi Aedes albopictus lại cư trú chủ yếu ở vùng nông thôn. Muỗi Aedes aegypti không truyền virus cho trứng trong khi muỗi Aedes albopictus thì có khả năng này (5).



Nhiễm virus Dengue thường không có biểu hiện rõ ràng. Sốt Dengue cổ điển (thể nhẹ) chủ yếu xuất hiện ở người lần đầu mắc bệnh, chưa có miễn dịch. Sốt xuất huyết Dengue/Hội chứng sốc Dengue (thể nặng) thường xảy ra trong lần nhiễm trùng sau, khi bệnh nhân đã có sẵn miễn dịch chủ động (do đã bị bệnh) hoặc thụ động (do mẹ truyền sang) đối với một loại huyết thanh khác. Bệnh thường biểu hiện nặng đột ngột sau 2 đến 5 ngày (giai đoạn hạ sốt). Các phức hợp kháng nguyên-kháng thể lưu hành trong máu, sự hoạt hóa hệ thống bổ thể và giải phóng các chất hoạt mạch có thể gây nên tăng tính thấm mao mạch đối với huyết tương, xuất huyết và có thể là đông máu nội mạch lan tỏa. Trong quá trình đào thải miễn dịch của các tế bào nhiễm virus, các protease và lymphokine được phóng thích gây hoạt hóa hệ thống bổ thể cũng như các yếu tố tăng tính thấm thành mạch (7).

Miễn dịch tăng cường bệnh: Một số nhà nghiên cứu đưa ra giả thuyết rằng "thể nặng của bệnh là Sốt xuất huyết Dengue/Hội chứng sốc Dengue xảy ra khi một người đã nhiễm bệnh trong quá khứ bởi một loại huyết thanh virus nay lại nhiễm một loại huyết thanh virus khác". Giả thuyết này được củng cố bởi các ghi nhận lâm sàng rằng Sốt xuất huyết Dengue gặp chủ yếu ở những người đã ít nhất một lần mắc bệnh trước đó và Sốt xuất huyết Dengue xảy ra thường xuyên hơn ở các cư dân trong vùng dịch lưu hành hơn là các du khách mắc bệnh tại nơi này trong cùng thời điểm. Nếu giả thuyết này là đúng hoàn toàn thì việc lưu chuyển các loại huyết thanh virus khác nhau từ vùng này đến vùng khác trên thế giới sẽ ngày càng gây nên tình trạng bệnh nặng nề hơn trong tương lai (5).

Như vậy yếu tố nguy cơ gây bệnh nặng trong Sốt xuất huyết Dengue là người sẵn có kháng thể kháng lại một loại huyết thanh đã gây bệnh trước đó, chủng virus gây bệnh, trẻ nhỏ hơn 12 tuổi, phụ nữ và người Caucasian (1) (4).



Triệu chứng[sửa | sửa mã nguồn]


  • Thời kỳ ủ bệnh: 3 - 6 ngày, một số trường hợp có thể kéo dài đến 15 ngày.

  • Sốt Dengue

Triệu chứng thường xuất hiện đột ngột với sốt cao, người mệt mỏi rũ rượi, nhức đầu, đau sau hốc mắt, đau cơ (đau thắt lưng và đôi khi đau chân), thường kèm theo đau họng, chảy nước mũi trong, buồn nôn, nôn mửa, đau vùng thượng vị và tiêu chảy cần quan sát màu sắc phân xem có lẫn máu màu đỏ tươi hay màu đen màu đen có thể xuất huyết dạ dày.

Ở trẻ em, đau họng và đau bụng thường là những triệu chứng nổi trội. Hạ sốt xuất hiện vào ngày thứ 3 đến ngày thứ 8 thường kèm biểu hiện xuất huyết nhẹ nhàng (chấm xuất huyết dưới da, nốt xuất huyết và chảy máu mũi, chảy máu chân răng). Sau khi hạ sốt thường xuất hiện ban dạng dát sẩn đa hình thái, đôi khi gây ngứa, đầu tiên ở thân mình và lan rộng theo hướng ly tâm đến các chi, mặt, lòng bàn tay và lòng bàn chân. Một số trường hợp có thể bệnh có thể tiến triển đến xuất huyết tiêu hóa và sốc. Như vậy biểu hiện xuất huyết không chỉ Sốt xuất huyết Dengue mới có (6).


  • Sốt xuất huyết Dengue

Giai đoạn sớm của bệnh không thể phân biệt được với sốt Dengue. Tuy nhiên thường sau từ 2 đến 5 ngày, tức là vào giai đoạn hạ sốt, một số trường hợp nhiễm trùng tiên phát và đa số các nhiễm trùng thứ phát sau khi đã nhiễm một loại huyết thanh khác có biểu hiện hạ tiểu cầu (< 100.000/mm³) và cô đặc máu. Thường thì giảm tiểu cầu xảy ra trước cô đặc máu. Biểu hiện xuất huyết có thể xảy ra hoặc không. Các biểu hiện xuất huyết thường gặp trong Sốt xuất huyết Dengue gồm xuất huyết dưới da tự phát hoặc sau tiêm chích, chảy máu chân răng, chảy máu mũi và xuất huyết tiêu hóa. Lách thường không không lớn. Nếu gan lớn và đau thì đây là những dấu hiệu xấu. Các biểu hiện khác có thể gồm tràn dịch màng phổi, giảm protein máu, bệnh lý não với dịch não tủy bình thường (6).

Tính thấm mao mạch gia tăng, với hậu quả thoát huyết tương ra ngoài khoang dịch kẽ với lượng lớn, là nguyên nhân của tình trạng cô đặc máu. Khi bệnh nhân có đồng thời hai dấu hiệu giảm tiểu cầu và cô đặc máu thì được chẩn đoán là Sốt xuất huyết Dengue và được phân loại theo WHO (6):

Độ I: giảm tiểu cầu kèm cô đặc máu nhưng không có chảy máu tự phát.

Độ II: giảm tiểu cầu và cô đặc máu kèm theo chảy máu tự phát.

Độ III: giảm tiểu cầu và cô đặc máu, huyết động không ổn định: mạch nhỏ khó bắt, huyết áp kẹt (hiệu số huyết áp tâm thu - huyết áp tâm trương < 20 mm Hg), tay chân lạnh, tinh thần lú lẫn.

Độ IV: giảm tiểu cầu và cô đặc máu, sốc biểu hiện rõ: bệnh nhân không có mạch ngoại biên, huyết áp = 0 mmHg.

Nếu được điều trị thoát sốc thì bệnh nhân lành bệnh nhanh chóng và rất hiếm có di chứng (6).


Chẩn đoán[sửa | sửa mã nguồn]


Chẩn đoán nguyên nhân là cực kỳ quan trọng và cần thiết nếu xét trên phương diện sức khỏe cộng đồng nhưng lại tỏ ra không cần thiết cho việc thiết lập một chế độ điều trị hỗ trợ sớm cho bệnh nhân. Chẩn đoán Dengue thường dựa vào các yếu tố dịch tễ, biểu hiện lâm sàng như trình bày ở trên cũng như dựa vào các xét nghiệm đơn giản: số lượng bạch cầu, số lượng tiểu cầu và hematocrit. Nếu chưa có ban đỏ xuất huyết ta làm nghiệm pháp dây thắt để chẩn đoán xác định.

Số lượng bạch cầu trong máu ngoại vi: Dengue xuất huyết thường có giảm bạch cầu. Trường hợp tăng bạch cầu và tăng bạch cầu trung tính thường là cơ sở để loại trừ Dengue xuất huyết.

Giảm tiểu cầu (< 100.000/mm³): Cần làm số lượng tiểu cầu ở bất kỳ bệnh nhân nào nghi ngờ Sốt xuất huyết Dengue. Tiểu cầu càng giảm, nguy cơ xuất huyết càng cao.

Hematocrit: Khi giá trị hematocrit tăng trên 20% so với trị số bình thường trước đó thì bệnh nhân được coi là có cô đặc máu, một tiêu chuẩn chẩn đoán Sốt xuất huyết Dengue. Nếu không biết được giá trị hematocrit bình thường của bệnh nhân thì có thể xem giá trị > 45% là mốc chẩn đoán (6).

Một số xét nghiệm khác nhằm đánh giá mức độ bệnh: điện giải đồ, khí máu, chức năng đông máu, men gan, X quang phổi nhằm phát hiện biến chứng tràn dịch màng phổi (4).

Chẩn đoán nguyên nhân: có thể thể hiện mầm bệnh trong máu và huyết thanh bằng phương pháp phân lập virus, xác định kháng nguyên virus bằng các phương pháp miễn dịch hoặc phát hiện bộ gene của virus bằng kỹ thuật khuếch đại chuỗi ADN (PCR).

Chẩn đoán huyết thanh học thông qua phương pháp xác định IgM bằng kỹ thuật hấp phụ miễn dịch gắn kết enzyme (MAC - ELISA) ở hai mẫu máu bệnh nhân lấy cách nhau 14 ngày. Mẫu máu thứ nhất lấy trước ngày thứ 7 của bệnh cũng có thể có ích trong việc phân lập virus bằng cách cấy vào tế bào của muỗi A. albopictus. Sau đó, việc định danh vi khuẩn có thể thực hiện nhờ xét nghiệm miễn dịch huỳnh quang sử dụng kháng thể đơn dòng.

Ở bệnh nhân tử vong, chẩn đoán có thể thực hiện bằng phương pháp phân lập virus hoặc xác định kháng nguyên virus (phản ứng miễn dịch huỳnh quang trực tiếp) từ hai mẫu bệnh phẩm (gan, lách, hạch bạch huyết, tuyến ức).



Nguyên tắc chung[sửa | sửa mã nguồn]


Vấn đề mất nước trong Sốt xuất huyết Dengue
Không phải Sốt xuất huyết Dengue gây mất nước. Đây là sự nhầm lẫn quá lâu dài.
Bệnh dù nặng dù nhẹ không có mất nước trên lâm sàng. Cân nặng không giảm, da không khô, một số tế bào nội tạng đả thừa nước thấy được trên siêu âm. Thường và đa số bệnh nhân Sốt xuất huyết Dengue là đủ và thừa nước, đả đủ nước ngay lúc mới bắt đầu truyền dịch cấp cứu.
Vì sao phải truyền dịch cấp cứu sốc Dengue. Vì bệnh nhân bị giảm thể tích tuần hoàn máu.
Tại sao bị giảm thể tích tuần hoàn máu, giảm khoảng 20 đến 30% thế tích. Vì Albumin trong máu thoát quản ra khỏi lòng mạch. Nước bình thường ra vào giữa lòng mạch với các mô và tế bào, nay không trở vào lòng mạch cho đủ nhu cầu, bởi một số lớn Albumin hiện diện ngoài lòng mạch. Có thể nói bệnh siêu vi Dengue gây thoát quản huyết tương, không phải là bệnh mất nước.
Đây là điểm mấu chốt, quan trọng để sớm thay đổi tư duy điều trị.


Phân cấp điều trị bệnh nhân[sửa | sửa mã nguồn]


Sau đây là những gợi ý về phân cấp bệnh nhân theo tuyến điều trị trong trường hợp có dịch với lượng bệnh nhân tăng cao trong cùng thời điểm. Xin lưu ý đây chỉ là những gợi ý và tuyệt đối không phải là phác đồ điều trị nên không thể áp dụng cho mọi trường hợp (6).

Tiêu chuẩn điều trị tại nhà:


  • Tất cả những bệnh nhân Sốt Dengue không có nhu cầu phải truyền dịch tĩnh mạch.

  • Bệnh nhân Độ I có khả năng bù dịch bằng đường uống.

  • Bệnh nhân Độ II có khả năng bù dịch bằng đường uống và không có chảy máu quan trọng.

Tiêu chuẩn nhập viện trong thời gian ngắn (12 - 24 giờ):


  • Tất cả những trường hợp bệnh cần bù dịch qua đường tĩnh mạch.

  • Bệnh nhân Độ I và Độ II và không thể điều trị bù dịch bằng đường uống.

  • Bệnh nhân Độ I hoặc Độ II nhưng có đau tức gan và gan lớn.

  • Tất cả bệnh nhân độ III.

Tiêu chuẩn nhập viện trong thời gian dài (> 24 giờ):


  • Tất cả bệnh nhân thuộc nhóm nhập viện trong thời gian ngắn không đáp ứng điều trị bù dịch.

  • Bệnh nhân Độ I hoặc Độ II kèm theo nhưng yếu tố cơ địa dễ chuyển thành bệnh nặng (hen phế quản, dị ứng, đái tháo đường, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính...).

  • Bệnh nhân Độ II hoặc Độ III và có chảy máu quan trọng.

  • Tất cả bệnh nhân Độ IV.

Vaccine[sửa | sửa mã nguồn]


Lý tưởng nhất là có một vaccine có thể chống lại cả bốn loại huyết thanh virus gây bệnh. Đáng tiếc là một loại huyết thanh như vậy hiện nay vẫn chưa có sẵn. Tuy nhiên đã có một nghiên cứu tại Đại học Mahidol (Thái Lan) với sự cộng tác của WHO, một vaccine chống cả bốn loại huyết thanh virus gây bệnh đã, đang được phát triển và hoàn thiện. Vaccine này tỏ ra an toàn và hiện đang được đưa vào dùng thử nghiệm trên lâm sàng (5).
Hiện nay vaccin chống SXH cả bốn typ siêu vi Dengue đang ở pha 2 thử nghiệm lâm sàng.


Kiểm soát vector truyền bệnh[sửa | sửa mã nguồn]


Hiện tại, kiểm soát vector truyền bệnh được xem là phương pháp phòng bệnh duy nhất có hiệu quả (3). Kiểm soát các vector Aedes có thể làm giảm đáng kể tỉ lệ mắc bệnh Dengue. Trong những năm 1950 đến 1960 Tổ chức Y tế Toàn châu Mỹ (Pan American Health Organization) đã thành công trong việc diệt sạch Aedes aegypti ở nhiều vùng thuộc Trung và Nam Mỹ và trong thời gian này, các vụ dịch Dengue rất hiếm ở châu Mỹ. Tuy nhiên sau khi chương trình ngừng lại thì Aedes aegypti và sau đó là Dengue tái xuất hiện.

Phương pháp chính để kiểm soát số lượng muỗi Aedes là giảm thiểu các khu vực có nước đọng, là nơi đẻ trứng của muỗi. Đậy kín các dụng cụ chứa nước, giảm tối đa các vật dụng có thể chứa nước mưa (lốp xe cũ, chén bát cũ...), hay nước sạch như bình bông, bàn cầu trong các phòng trống không có người ở, hầm nước ở các chung cư. Có thể dùng các loại sinh vật trong nước tiêu diệt trứng của muỗi. Trong vụ dịch đôi khi phải cần đến phun thuốc diệt muỗi trên diện rộng.

Cũng giống như tất cả các bệnh lây truyền do arbovirus khác, các phương pháp bảo hộ cá nhân như mặc tất, vớ dài, dùng thuốc xua muỗi, tránh nhưng nơi có mật độ vector truyền bệnh cao. Một điểm đặc biệt là muỗi Aedes aegypti hoạt động vào ban ngày nên việc phòng tránh có khác so với các loại muỗi chỉ hoạt động ban đêm như AnopheleCulex.


Giáo dục cộng đồng[sửa | sửa mã nguồn]


Việc nâng cao ý thức cộng đồng về nguy cơ của bệnh, các phương pháp phòng bệnh cũng như khả năng nhận biết bệnh và bệnh nặng có ý nghĩa rất quan trọng.



  • 1. CDC. Dengue Fever [1].

  • 2. Epidemic and Pandemic Alert and Response (EPR)/WHO. Dengue/dengue haemorrhagic fever [2].

  • 3. Media Center/WHO. Dengue and dengue haemorrhagic fever [3].

  • 4. MedlinePlus Medical Encyclopedia. Dengue Hemorrhgic Fever [4].

  • 5. Boston College. Dengue Fever and Dengue Hemorrhagic Fever [5]

  • 6. Marcio De Figueiredo Fernandes. Dengue/Dengue Hemorrhagic Fever. Infectious Diseases. Medstudents [6].

  • 7. Price D,. Wilson SR. Dengue Fever. Emedicine [7].

Read More

Sagara Sanosuke – Wikipedia tiếng Việt



Sagara Sanosuke (相楽 佐之助 Tương Lạc Tá Chi Trợ?), theo cách viết phương Tây là Sanosuke Sagara, là một nhân vật hư cấu trong seri manga và anime Rurouni Kenshin/ Samurai X. Hình mẫu của Sagara Sanosuke là đội trưởng đơn vị thứ 10 của Shinsengumi, Harada Sanosuke.





Sanosuke bỏ nhà ra đi khi còn nhỏ tuổi để gia nhập Sekihoutai, bỏ lại cha (Kamishimoemon), mẹ (Naname), và cô em gái nhỏ (Uki), người luôn kính yêu anh. Nhiều năm sau anh trở về và biết rằng mẹ mình đã qua đời 2 năm sau ki hạ sinh em trai út của anh là Ota, em ngay lập tức ngưỡng mộ Sanosuke vì sự dũng cảm và gan dạ của anh. Sanosuke biết họ của mình bây giờ là Higashidani, mặc dù anh không bao giờ tự mình sử dụng nó. Cô em gái, sau khi Sanosuke ra đi và cái chết của mẹ, trở thành người chắm sóc cho em trai và cha, nay sinh nhai bằng nghề buôn bán nhỏ và làm nông cùng với việc đánh lộn trong vùng. Ota, sau khi Sanosuke lại bỏ nhà ra đi, cuối cùng theo lời khuyên của anh trai vào luyện tập ở đạo tràng Kamiya Kasshin-Ryu để trở nên mạnh mẽ hơn.

Sekihoutai chiến đấu cho sự thống nhất Đế quốc vào cuối thời Mạc Phủ Tokugawa và Sanosuke ngưỡng mộ thủ lĩnh Sagara Sōzō và lấy họ Sagara theo anh. Sekihoutai đang lĩnh nhiệm vụ phổ biến việc giảm một nửa thuế được cách mạng ban bố. Tuy nhiên, khi chính phủ cách mạng gặp phải vấn đề tài chính, họ gán cho Sekihoutai là lừa gạt để lấp liếm cho lời hứa của mình. Việc này được sách hoạch bởii Shindō Tatewaki, một cựu quan lại của liên minh. Sekihoutai được chọn làm con dê tế thần và bị xử trảm; Sanosuke là người duy nhất sống sót, ngoài ra còn có người bạn Tsukioka Katsuhiro. Hoàn cảnh chính xác cái chết của Sōzō khác nhau trong anime và manga; trong manga Sanosuke biết được rằng thủ lĩnh đã bị giết sau khi thất đầu của anh bị bêu giữa chợ, trong khi trong anime Sozo đang bị thương nhưng cũng cứu Sanosuke bằng cách đẩu cậu bé vào vách đá trước khi chết.

Lòng đầu giận dữ và cay đắng, Sanosuke sống cuộc đời của một tên đánh thuê với biệt danhh "Zanza" xuất phát từ vũ khí của anh, zanbatō. Cuối cùng, anh được thuê để giết Himura Kenshin, nhưng sau khi bị đánh bại bởi cựu sát thủ và biết phương pháp vô sát của Kenshin, Sanosuke trở thành một chiến hữu vô giá. Anh sau đó học được một kỹ thuật giống như boxing, nổi tiếng cới sức mạnh của bàn tay phải. Vì thanh zanbato bị vỡ trong trận chiến, Sanosuke không còn cầm bất kỳ vũ khí nào nữa, chỉ một lần duy nhất để bảo vệ đạo tràng Kamiya trong phần Jinchu.

Vào cuối seri manga, Sanosuke rời Nhật Bản để tránh bị bắt oan và đi chu du thế giới. Không có tin tức gì về anh cho đến 5 năm sau trong một cuộc tụ tập của Kenshin-gumi, khi đó anh nói với mọi người qua một bức thư rằng anh đang ở Mông Cổ và sẽ ở lại một thời gian rồi về Nhật.



Trong cuộc dấy loạn của Shishio, Sanosuke học được 'Futae no Kiwami' từ một ông sư phá giới¸ tên là Yukyuzan Anji. Futae no Kiwami là một kỹ thuật đặc biệt, trong đó người tấn công sử dụng liên tiếp 2 cú đánh với 2 phần khác nhau của bàn tay với tốc độ cao, cú thứ nhất sử dụng đầu đốt ngón tay để vô hiệu hóa sự vững chắc của mục tiêu, và sau đó cú thứ hai dùng khớp đốt ngón tay phá vỡ mục tiêu trước khi nó có thể hồi phục sau cú thứ nhất. Sau đó, trong trận đấu với Anji, sự liều lĩnh tuyệt vọng của Sanosuke đã dẫn đến sự cách tân lên cấp độ thứ 3, được nói với Kenshin và Saitou với cái tên 'Sanjuu no Kiwami', trong đó anh đánh tiếp cú thứ 3 với bàn taymowr, khiến các ngón tay anh hoạt động 2 lần. Anji chưa bao giờ đạt đến trình độ này, mặc dù ông đã rất tinh thông và có thể sử dụng với cả hai tay, khuỷu tay, đầu gối, chân, đầu và thông qua cả kiếm nữa. Đòn đánh cũng không thể làm sứt mẻ ông khi dùng, khác với Sanosuke, làm hỏng tay mình khi liên tục sử dụng chiêu này, mặc dù phần lớn là do anh không cho tay mình được hồi phục sau khi xuất chiêu.



Sagara Sanosuke bắt đầu trong seri Kenshin với tư cách người đồng đội mạnh nhất, mặc dù không thật mạnh. Ban đầu, anh đánh bại những kẻ thù tầm thấp như Beshimi, Hyottoko, và Shikijo của Oniwabanshu. Tuy nhiên, những địch thủ này quá yếu nếu so với những nhân vật mạnh hơn như Aoshi và Saito Hajime - những người đã đánh bại Sano. Tuy vậy, trong phần ở Kyoto anh học được chiêu 'Futae no Kiwami' của Anji và được coi là mối đe dọa nghiêm túc đối với các kẻ thù của Kenshin.

Shishio Makoto, sau khi xem Sanosuke xuất chiêu Futae no Kiwami chặn những viên đạn súng máy, đã từ bỏ ấn tượng ban đầu rằng Sanosuke không phải là mối đe dọa như Kenshin hay Saito, mà nói rằng "Thằng nhóc này...Nó không chỉ là thứ vướng tay vướng chân!" Cả Saito cũng bắt đầu thừa nhận khả năng của anh (mặc dù anh vẫn coi Sanosuke là một tên ngốc). Tuy vậy, Sanosuke bị thương nặng sau trận chiến với Anji và Shishio. Điều này trở thành một chướng ngại đáng kể đối với khả năng chiến đấu của Sanosuke trong phần Jinchuu và cuộc đấu với Inui Banjin, người sử dụng (tự đặt) "Găng tay bất bại". Takani Megumi, như là bác sĩ ngoại khoa riêng của anh, lúc nào cũng cáu điên lên vì anh cứ tiếp tục dùng bàn tay phải của mình bất chấp nó chưa hồi phục hoàn toàn.

Kể cả với bàn tay bị gãy, Sanosuke vẫn có thể đánh vỡ găng tay của Banjin, kể cả khi hắn đã phát triển lên thành "Tân găng tay bất bại" trong trận chiến cuối cùng. Anh cuối cùng vượt qua được thương tích của mình bằng cách khám phá trong chuyến về quê rằng Futae no Kiwami có thể sử dụng bằng cả hai tay; tay trái nắm lấy cổ tay phải trong cú va chạm, giảm lực tác dụng lên bàn tay bị thương. Anh sử dụng hiệu quả chiêu này chống lại Su-shin Byakko, trong lúc đó, Kenshin lưu ý về việc Futae no Kiwami sử dụng cả hai tay.



Dấu hiệu sau lưng chiếc áo khoác của Sanosuke là chữ Nhật kanji 惡 (Aku/Ác), có nghĩa là xấu xa. Anh coi biểu tượng đó là sự trung thành đối với quá khứ Sekihōtai của mình, nhưng cũng để gợi nhớ đến việc bảo vệ người vô tội chống lại sự sai trái. Chữ kanji này có thể giải nghĩa là Tồi Tâm.

Sức ảnh hưởng của Sanosuke đối với những người khác có thể thấy với chữ này sau lưng nhiều nhân vật khác. Em trai Higashidani Ota của anh, sau khi thấy anh trai cứu cha, đòi chị thêu cho cậu một hình như thế ở sau lưng áo. Myojin Yahiko, người lớn lên có vẻ giống Sanosuke, cũng chọn một chữ kanji ở sau lưng áo khi anh ta đến tuổi trưởng thành (15 tuổi) vào cuối bộ manga.



Trong khi một đôi được nhiều fan yêu thích trong Rurouni Kenshin là Sanosuke và Takani Megumi và chắc chắn chỉ có tình bạn giữa họ, không có sự lãng mạn hay bằng chứng nào chứng tỏ sự gần gũi thành hiện thực.










Read More

Vườn quốc gia U Minh Hạ – Wikipedia tiếng Việt


Vườn quốc gia U Minh Hạ thuộc tỉnh Cà Mau. Địa giới hành chính nằm trên hai huyện U Minh và Trần Văn Thời. Được thành lập theo quyết định số 112/QĐ-TTg ngày 20 tháng 1 năm 2006 của Thủ tướng chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, trên cơ sở nâng cấp khu bảo tồn thiên nhiên Vồ Dơi. Đây là khu vực có hệ động thực vật đặc trưng vùng đất ngập nước trên lớp than bùn do xác thực vật tích tụ lâu năm tạo thành. Thực vật đặc hữu ở đây là các loài: tràm, móp, trảng năn, sậy... Động vật đặc trưng là: rái cá lông mũi, tê tê, nai, khỉ đuôi dài, lợn rừng, rùa, rắn, trăn, các loại cá nước ngọt, chim, côn trùng...Đây là một trong hai vườn quốc gia tại tỉnh Cà Mau, Việt Nam. Ngày 26 tháng 5 năm 2009, VQG U Minh Hạ được công nhận là một trong ba vùng lõi của Khu dự trữ sinh quyển Mũi Cà Mau, được UNESCO đưa vào danh sách các khu dự trữ sinh quyển của thế giới.





Tọa độ: Từ 9°12′30″ tới 9°17′41″ vĩ bắc và 104°54′11″ tới 104°59′16″ kinh đông.

Vườn quốc gia U Minh Hạ có tổng diện tích 8.286ha nằm trên địa bàn các xã Khánh Lâm, Khánh An thuộc huyện U Minh và các xã Trần Hợi, Khánh Bình Tây Bắc thuộc huyện Trần Văn Thời.

- Bắc giáp tuyến 27 - Phân trại K3 thuộc trại giam K1 Cái Tàu;

- Nam giáp vùng đệm kinh xáng Minh Hà;

- Đông giáp kinh 100, ấp 14 xã Khánh An và hậu T19 ấp Vồ Dơi;

- Tây giáp kinh 90, phân trường Trần Văn Thời và đê bao phía tây Vồ Dơi.

Vườn quốc gia U Minh Hạ có ba khu vực chính gồm:


  • Khu bảo tồn hệ sinh thái rừng trên đất than bùn.

  • Khu phục hồi và sử dụng bền vững hệ sinh thái rừng ngập nước.

  • Khu dịch vụ hành chính.

Ngoài ra, Vườn quốc gia U Minh Hạ còn có hơn 25.000 ha vùng đệm thuộc các lâm-ngư trường U Minh 1, 3, lâm-ngư trường Trần Văn Thời, trại giam K1 Cái Tàu và trung tâm nghiên cứu ứng dụng rừng ngập Minh Hải.



Bảo tồn, tái tạo các giá trị về cảnh quan thiên nhiên, môi trường sinh thái và đa dạng sinh học của hệ sinh thái đất ngập nước đặc thù, rừng tràm trên đất than bùn.

Vườn quốc gia U Minh Hạ còn có nhiệm vụ bảo tồn và phát triển nguồn gen các loài động thực vật quý, các giá trị văn hóa, tinh thần, di tích lịch sử, phục vụ công tác nghiên cứu khoa học, tham quan và phát triển du lịch.







Read More

Polyvinyl clorua – Wikipedia tiếng Việt




Phản ứng trùng hợp PVC

Polyvinylclorua (poly(vinyl chloride) viết tắt là PVC) là một loại nhựa nhiệt dẻo được tạo thành từ phản ứng trùng hợp vinylclorua (CH2=CHCl). Phản ứng trùng hợp rút gọn được mô tả ở hình bên.





Polyvinyl clorua (PVC) là một trong những vật liệu được tổng hợp nhân tạo sớm nhất và có lịch sử dài nhất trong sản xuất công nghiệp. Năm 1835 lần đầu tiên Henri Regnault đã tổng hợp được vinylclorua (VC), nguyên liệu chính để tạo nên PVC. Polyvinyl clorua được quan sát thấy lần đầu tiên vào năm 1872 bởi Baumann khi phơi ống nghiệm chứa vinylclorua dưới ánh sáng mặt trời, sản phẩm tạo ra có dạng bột màu trắng và bản chất hóa học của nó chưa được xác định. Bốn mươi năm sau, năm 1912 là năm PVC được công nhận là do Iwan Ostromislensky (Nga) tìm ra, thực tế cùng năm đó Fritz Klatte (Đức) đã công bố một quy trình sản xuất PVC [4]. Tuy nhiên, polyme mới này vẫn không được ứng dụng và không được chú ý quan tâm nhiều, bởi tính kém ổn định, cứng và rất khó gia công. Cuối thế kỷ 19, các sản phẩm như axetylen và clo đang trong tình trạng khủng hoảng thừa, việc có thể sản xuất được PVC từ các nguyên liệu này là một giải pháp rất hữu hiệu. Năm 1926, khi tiến sĩ Waldo Semon phát minh ra phương pháp dẻo hóa PVC, đây mới là một bước đột phá đầu tiên để khắc phục nhược điểm khi gia công cho PVC. Sau đó lần lượt là các nghiên cứu và sáng chế về chất ổn định cho PVC được công bố. Đến năm 1933, nhiều dạng PVC đã được tổng hợp ở Mỹ và Đức nhưng phải đến năm 1937, PVC mới được sản xuất trên quy mô công nghiệp hoàn chỉnh tại Đức và sau đó là ở Mỹ [5].



PVC có dạng bột màu trắng hoặc màu vàng nhạt. PVC tồn tại ở hai dạng là huyền phù (PVC.S - PVC Suspension) và nhũ tương (PVC.E - PVC Emulsion). PVC.S có kích thước hạt lớn từ 20 - 150 micron. PVC.E nhũ tương có độ mịn cao.

PVC không độc, nó chỉ độc bởi phụ gia, monome VC còn dư, và khi gia công chế tạo sản phẩm do sự tách thoát HCl.
PVC chịu va đập kém. Để tăng cường tính va đập cho PVC thường dùng chủ yếu các chất sau: MBS, ABS, CPE, EVA với tỉ lệ từ 5 - 15%.
PVC là loại vật liệu cách điện tốt, các vật liệu cách điện từ PVC thường sử dụng thêm các chất hóa dẻo tạo cho PVC này có tính mềm dẻo cao hơn, dai và dễ gia công hơn, chất lượng khi gia công tốt hơn, dễ sử dụng hơn.

Tỉ trọng của PVC vào khoảng từ 1,25 đến 1,46 g/cm3 (nhựa chìm trong nước), cao hơn so với một số loại nhựa khác như PE, PP, EVA (nhựa nổi trong nước)...



PVC cứng[sửa | sửa mã nguồn]


PVC cứng là PVC có thành phần chủ yếu là bột PVC, chất ổn định nhiệt, chất bôi trơn, các chất phụ gia, không có hoặc có hàm lượng chất hóa dẻo thấp (<5%). Hỗn hợp của chúng được trộn trong máy trộn, sau đó được làm nhuyễn trong máy đùn, máy cán, ở nhiệt độ 160 - 180 °C.

PVC cứng được dùng làm ống dẫn nước, xăng dầu và khí ở nhiệt độ không quá 60o, các thiết bị thông gió, dùng bọc các kim loại làm việc trong môi trường ăn mòn.














Tính chấtGiá trị, đơn vị đo
Khối lượng riêng1,45 - 1,50 g/cm3
Giới hạn bền kéo đứt500 – 700 kg/cm2
Giới hạn bền uốn800 – 1200 kg/cm2
Giới hạn bền nén800 – 1600 kg/cm2
Môđun đàn hồi4000 - 10.000 kg/cm2
Độ dãn dài khi đứt10 - 25%
Hệ số giãn nở dài0,00006 - 0,00007
Độ dẫn nhiệt3,8 - 4.10-4 cal/cm.s.°C
Điện áp đánh thủng15-35 kV/cm
Hằng số điện môi (60 Hz, 30 °C)3,54
Điện trở suất1015 Ω.cm

Tạo màng[sửa | sửa mã nguồn]


Màng PVC được tạo ra nhờ quá trình cán trên máy cán hoặc thổi trên máy thổi màng. Màng nhựa PVC gồm màng cứng, bán cứng và mềm. Tùy theo hàm lượng chất hóa dẻo thêm vào thì sẽ cho ra màng PVC cứng, bán cứng và mềm.

Hàm lượng hóa dẻo thêm vào dưới 5 phr (5 phần hóa dẻo/100 phần PVC) sẽ cho ra màng PVC cứng, hàm lượng hóa dẻo thêm vào từ 5 phr đến dưới 15 phr sẽ cho ra màng PVC bán cứng, hàm lượng hóa dẻo thêm vào cao hơn 15 phr sẽ cho ra màng PVC mềm.

Chất hóa dẻo thêm vào nhựa PVC sẽ làm giảm liên kết liên phân tử do phân cực sẽ làm cho nhựa PVC trở nên mềm hơn. Độ mềm dẻo của màng PVC phụ thuộc vào hàm lượng chất hóa dẻo.Chất hóa dẻo thường dùng là DOP, DINP, TXIB, Hexamoll DINCH v.v...

Màng PVC được dùng sản xuất ra rất nhiều loại sản phẩm mà tiêu biểu như áo mưa, mái hiên, màng phủ ruộng muối, nhãn chai nước khoáng, đóng gói sản phẩm, album v.v...


Ống[sửa | sửa mã nguồn]


Ống nhựa PVC gồm hai loại. Ống nhựa PVC cứng hay còn gọi là ống uPVC và ống nhựa PVC mềm. Ống nhựa PVC cứng không dùng chất hóa dẻo trong công thức phối trộn. Ngược lại ống PVC mềm phải sử dụng chất hóa dẻo trong công thức phối trộn, chất hóa dẻo thường dùng là dầu hóa dẻo DOP.

Ống nhựa PVC được sản xuất trên máy đùn. Máy đùn có thể là máy đùn hai trục vis hoặc máy đùn một trục vis. Thông thường ống nhựa PVC được sản xuất trên máy đùn hai trục vis sẽ cho sản phẩm chất lượng tốt hơn hẳn so với máy đùn một trục vis. Do máy đùn hai trục vis có khả năng làm cho hỗn hợp nhựa PVC nóng chảy tốt hơn nên có thể sử dụng trực tiếp hỗn hợp sau khi trộn trên máy trộn. Ngược lại máy đùn một trục vis phải sử dụng hạt nhựa PVC tạo sẵn hoặc phải sử dụng phụ gia trong công thức phối trộn cho độ nóng chảy tốt.

Thành phần phối trộn của ống uPVC bao gồm bột nhựa PVC với chỉ số K là 65 - 66, chất ổn định nhiệt, chất bôi trơn nội, chất bôi trơn ngoại, chất trợ gia công, chất độn, bột màu v.v...

Thành phần phối trộn của ống PVC mềm bao gồm bột nhựa PVC (K65 - K66), chất ổn định nhiệt, chất bôi trơn, bột màu, chất hóa dẻo v.v...

Ống PVC được sử dụng rất đa dạng trong cuộc sống từ ống dẫn nước từ nhà máy nước đến các trạm phân phối nước, ống cấp từ nhà máy cấp nước đến hộ gia đình, ống nước thải trong các tòa nhà cao tầng, ống dẫn nước tưới ở các trang trại trồng cao su, ca phê, tiêu, điều, ống dẫn nước cấp ở các nhà máy thủy điện v.v...

Dù vậy với đặc tính hóa chất độc hại nên ống PVC dần được thay thế bằng ống nhựa HDPE ít độc hại với độ bền lớn hơn.[cần dẫn nguồn]


Dây và cáp điện[sửa | sửa mã nguồn]


Nhựa PVC được ứng dụng rộng rãi trong sản xuất dây và cáp điện. Tùy theo loại phụ gia sử dụng mà dây cáp điện được phân loại ra dây cáp sử dụng ở 70 độ C, 90 độ C và 105 độ C.

Dây điện dân dụng thuộc loại 70 độ C dùng dẫn điện trong hộ gia đình, dây 90 độ C và 105 độ C dùng cho trạm biến thế, trong xe hơi, tàu biển v.v...

Thành phần phối trộn cho dây cáp điện bao gồm nhựa PVC, chất hóa dẻo, chất ổn định nhiệt, chất bôi trơn, chất chống cháy, chất độn. Hỗn hợp sau khi trộn trên máy trộn cao tốc được đưa qua máy đùn tạo. Hạt sau khi tạo ra được cho vào máy bọc để bọc lên dây đồng, dây nhôm v.v... và cho ra dây cáp điện.


uPVC profile[sửa | sửa mã nguồn]


uPVC profile là thanh nhựa cứng được sản xuất trên máy đùn hai trục vis. Thành phần phối trộn bao gồm nhựa PVC (K65 - K66), chất ổn định nhiệt, chất bôi trơn, chất trợ gia công, chất tăng độ bền va đập, chất độn, bột màu, chất chống tia UV.

1. Chất ổn định nhiệt làm cho nhựa PVC không bị cháy trong quá trình gia công.
2. Chất bôi trơn làm giảm ma sát giữa bền mặt trục vis với nhựa (chất bôi trơn ngoại), giữa bề mặt xi-lanh với nhựa (chất bôi trơn ngoại) và giữa các phân tử nhựa với nhau (chất bôi trơn nội). Nhờ quá trình bôi trơn của chất bôi trơn làm cho năng máy cao hơn, chất lượng sản phẩm tốt hơn. Tuy nhiên quá trình sử dụng chất bôi trơn phải thận trọng, phải chọn chất bôi trơn phù hợp, hàm lượng đủ dùng mới cho sản phẩm đạt chất lượng cao.
3. Chất trợ gia công làm cho quá trình chảy nhiệt của nhựa PVC trong máy xảy ra nhanh hơn, hỗn hợp nhựa chảy tốt hơn nên chất lượng sản phẩm tăng lên rõ rệt.

4.
khác với các loại nhựa thông thường, uPVC là một Polyvinyl Chlorua chưa được nhựa hoá gồm các thành phần:


+ Polymers Arylic -> tạo sự bền chắc, chiu va đập mạnh.

+ Nhóm chất ổn định -> giúp nhựa chịu được tác động của nhiệt và tia cực tím.

+ Chất sáp -> dùng trong quá trình tạo hình, cho thanh Profile có bề mặt nhẵn bóng.

Thanh Profile gồm bột nhựa PVC cùng các chất phụ gia được đưa vào máy trộn để tạo hỗn hợp PVC. Sau đó, hỗn hợp được đưa vào hệ thống máy đùn. Tại đây máy sẽ gia nhiệt và định hình tạo khuôn dạng các thanh Profile. Trước đó, theo các thông số của thanh Profile được nhập vào hệ thống máy tính. Hệ thống sẽ tự động tính toán khối lượng nguyên liệu cùng lượng bột màu cần thiết trong nguyên liệu để tạo thanh profile theo yêu cầu chuẩn.

Thanh Profile có cấu trúc dạng hộp, được chia thành nhiều khoang trống có chức năng cách âm, cách nhiệt, được lắp lõi thép gia cường để tăng khả năng chiu lực cho kết cấu cửa. Khoan trống đáp ứng tính kinh tế, giảm thiểu trọng lượng đến mức đa và đảm bảo sự bền vững trên mức an toàn.

Nhựa uPVC (Unplasticized PVC) là loại nhựa chịu nhiệt cao, có khả năng chống cháy tới 1000 độ C. Thời gian chịu đựng được nhiệt nóng chảy chỉ trong vòng 30 phút. Thanh nhựa uPVC chỉ nóng chảy ra chứ không bắt cháy. Ngoài ra, uPVC là loại thanh nhựa có các tính năng khác như: Không bị ôxy hóa, không bị co ngót, không bị biến dạng theo thời gian. Loại thanh nhựa uPVC cao cấp sẽ được phủ 1 lớp hóa chất chống trầy xước và tạo ra độ bóng trên bề mặt thanh nhựa uPVC này.

Các ứng dụng của thanh nhựa chịu nhiệt uPVC là dùng làm ra các dòng sản phẩm cửa nhựa lõi thép cao cấp. Dòng sản phẩm uPVC gồm có cửa sổ, cửa đi, vách ngăn PVC, hàng rào nhựa bao quanh biệt thự hoặc nhà phố.











Read More

George Weah – Wikipedia tiếng Việt


George Weah

George Weah - Milan AC 1996-97.jpg
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ
George Tawlon Manneh
Oppong Ousman Weah
Ngày sinh
1 tháng 10, 1966 (52 tuổi)
Nơi sinh
Monrovia, Liberia
Chiều cao
1,84 m (6 ft 12 in)
Vị trí
Tiền đạo
CLB trẻ
1981–1984
Young Survivors Clareton
1984–1985
Bongrange Company
CLB chuyên nghiệp*
Năm
Đội

ST

(BT)
1985–1986
Mighty Barrolle

10

(7)
1986–1987
Invincible Eleven

23

(24)
1987
Africa Sports

2

(1)
1987–1988
Tonnerre Yaoundé

18

(14)
1988–1992
Monaco

103

(47)
1992–1995
Paris Saint-Germain F.C.

96

(32)
1995–2000
A.C. Milan

114

(46)
2000
→ Chelsea (mượn)

11

(3)
2000
Manchester City F.C.

7

(1)
2000–2001
Marseille

19

(5)
2001–2003
Al-Jazira

8

(13)
Tổng cộng

411

(193)
Đội tuyển quốc gia
1987–2003
Liberia

60

(22)

  • Chỉ tính số trận và số bàn thắng ghi được ở giải vô địch quốc gia.

† Số trận khoác áo (số bàn thắng).

George Manneh Oppong Ousman Weah (sinh 1 tháng 10 năm 1966 tại Monrovia) là tổng thống thứ 25 của Liberia[1] và cựu cầu thủ bóng đá người Liberia. Ông đã dành quãng thời gian 14 năm trong sự nghiệp chơi cho các câu lạc bộ tại Pháp, Italia và Anh và giành được các danh hiệu tại hai trong số ba quốc gia kể trên. Năm 1995 tại Milan, ông giành được danh hiệu cầu thủ xuất sắc nhất thế giới của FIFA, cầu thủ xuất sắc nhất châu Âu và cầu thủ xuất sắc nhất châu Phi. Ông thường được ca ngợi là một trong những cầu thủ vĩ đại nhất mọi thời đại của bóng đá châu Phi.

George Weah được các nhà chuyên môn tại châu Phi đánh giá là top 3 "Cầu thủ châu Phi Vĩ đại nhất mọi Thời đại" khi vượt qua Abedi Pele, Jay-Jay Okocha, Nwankwo Kanu, Roger Milla. Didier Drogba xếp thứ ba, George Weah về thứ hai, Samuel Eto'o giành vị trí thứ nhất trong cuộc bầu chọn này.[2]

Ảnh hưởng của Weah tới Liberia nói riêng và châu Phi nói chung là rất lớn. Weah đã tham gia vào chính trị ở Liberia sau khi nghỉ hưu từ bóng đá và hiện giờ là một nhà nhân quyền và chính trị gia tại Liberia, nhưng không thành công trong cuộc bầu cử tổng thống của Liberia năm 2005, thất bại trước Ellen Johnson-Sirleaf trong vòng hai của cuộc bầu cử[3]. Trong cuộc bầu cử năm 2011, ông cũng không thành công với vai trò ứng cử viên Phó Tổng thống. Sau đó Weah đã được bầu vào Thượng viện Liberia, đại diện cho quận Montserrado trong cuộc bầu cử 2014.

Weah được bầu làm Tổng thống Liberia trong cuộc bầu cử năm 2017, đánh bại Phó Tổng thống đương nhiệm Joseph Boakai.[3]





Ở châu Âu[4][5][sửa | sửa mã nguồn]



Weah có ba người con: George Weah Jr., Tita và Timothy. Sau một thời gian thử thách với Chelsea vào năm 2013, Timothy đã ký hợp đồng với Paris Saint-Germain vào năm 2015.[6][7]

Weah chuyển từ đạo Tin Lành sang đạo Hồi, trước khi chuyển đổi trở lại. Ông hy vọng hòa bình giữa người Hồi giáo và Kitô hữu, và nói họ là "cùng một người".[8]  Hiện tại, Weah đang theo đạo Tin Lành.[9]  Tháng 10 năm 2017, ông được nhìn thấy trong nhà thờ nổi tiếng Nigeria của Mục sư lao Joshua cùng với Thượng nghị sĩ Liberia Prince Johnson.[10] Joshua được cho là có ảnh hưởng quan trọng trong quyết định của Johnson để xác nhận ứng cử của Weah trong cuộc bầu cử năm 2017 tại Liberia.[11][12]

Weah có quốc tịch Pháp và nói được tiếng Pháp lưu loát.[13]











Read More

Microsoft Excel – Wikipedia tiếng Việt


Microsoft Excel là chương trình xử lý bảng tính nằm trong bộ Microsoft Office của hãng phần mềm Microsoft được thiết kế để giúp ghi lại, trình bày các thông tin xử lý dưới dạng bảng, thực hiện tính toán và xây dựng các số liệu thống kê trực quan có trong bảng từ Excel. Cũng như các chương trình bảng tính Lotus 1-2-3, Quattro Pro… bảng tính của Excel cũng bao gồm nhiều ô được tạo bởi các dòng và cột, việc nhập dữ liệu và lập công thức tính toán trong Excel cũng có những điểm tương tự, tuy nhiên Excel có nhiều tính năng ưu việt và có giao diện rất thân thiện với người dùng.

Sức mạnh của Excel còn được các lập trình viên tích hợp vào các công cụ phân tích và tìm kiếm rất nhiều. Đặc biệt có thể kể đến là các công cụ liên quan đến Facebook. Với sự phát triển mạnh mẽ không ngừng của Facebook cũng như là quảng cáo trên Facebook thì việc lọc ra danh sách dựa theo các tiêu chí và xuất ra file Excel được rất nhiều người quan tâm. Không chỉ dừng lại ở đấy Excel còn được nhiều lập trình viên đánh giá là một công cụ tuyệt vời nhất. Cái mà toàn bộ những tính năng của nó không biết khi nào mới có thể tận dụng hết được. Và với mọi phần mềm khác khi xuất ra bất kỳ file để đánh giá thì Excel chính là lựa chọn hàng đầu bởi hiệu quả mà nó mang lại.





Trước đây, Microsoft đã giới thiệu một phần mềm bảng tính được gọi là Multiplan vào năm 1982, phần mềm rất được phổ biến trên hệ điều hành CP/M, nhưng trên MS-DOS thì nó đã không còn được như vậy. Điều đó đã thúc đẩy sự phát triển 1 chương trình bảng tính mới mang tên Excel với khẩu hiệu "'do everything 1-2-3 does and do it better'" (làm mọi thứ (Lotus) 1-2-3 có thể làm và còn làm tốt hơn). Phiên bản đầu tiên của Excel được phát hành lần đầu tiên trên máy MAC năm 1985 và trên Windows (đánh số 2.0 xếp ngang hàng với MAC và được tích hợp với môi trường run-time của Windows) vào tháng 11 năm 1987. Lotus đã quá chậm trong việc phát hành 1-2-3 cho Windows và cho đến cuối năm 1988, Excel bắt đầu bán được nhiều hơn so với 1-2-3 và giúp Microsoft đạt được vị trí hãng phát triển phần mềm hàng đầu. Trung bình cứ 2 năm Microsoft lại ra mắt phiên bản mới của Excel 1 lần hoặc lâu hơn. Phiên bản gần đây nhất là Excel 2016.

Gần đây, Excel đã trở thành mục tiêu của một vụ kiện. Lý do là một công ty khác đã bán một gói phần mềm đã lấy tên "excel" trong công nghiệp tài chính trước đó. Kết quả của cuộc tranh cãi trên yêu cầu đối chiếu tất cà văn bản và hồ sơ pháp lý của phần mềm "Microsoft Excel". Tuy nhiên khi xử lý vụ việc này người ta đã lờ nó đi và Microsoft luôn xử lý vấn đề khi họ mua nhãn hiệu của chương trình khác. Microsoft cũng động viên người sử dụng ký tự XL như một cách viết tắt của chương trình. Trong khi tên của chương trình đang được tranh cãi thì biểu tượng của nó vẫn mặc định là chữ X màu xanh lá cây và phần mở rộng của Excel là .xls.

Excel cung cấp cho người sử dụng khá nhiều giao diện làm việc. Tuy nhiên, bản chất thì chúng đều giống nhau.
Excel là chương trình đầu tiên cho phép người sử dụng có thể thay đổi font, kiểu chữ hay hình dạng của bảng tính, excel cũng đồng thời gợi ý cho người sử dụng nhiều cách xử lý vấn đề thông minh hơn. Đặc biệt là excel có khả năng đồ thị rất tốt.

Lần đầu tiên xuất hiện trong gói Microsoft Office năm 1993. Microsoft Word và Microsoft PowerPoint đã có 1 giao diện khá giống với Excel.

Từ năm 1993, Excel đã bao gồm Visual Basic for Applications (viết tắt là VBA). Một ngôn ngữ lập trình dựa trên nền tảng của Visual Basic, nó đã được thêm vào giúp tự động hóa các công việc trong Excel và cho phép người dùng tạo ra những hàm tùy biến. VBA là một chương trình hữu ích, trong những phiên bản gần đây, nó đã bao gồm những môi trường phát triển tổng hợp (IDE). Chức năng ghi lại những đoạn macro có thể tạo ra những đoạn mã VBA cho những hành động có tính chất lặp lại của người sử dụng, cho phép những thao tác thông dụng được tự động hóa, VBA cho phép tạo ra bảng biểu và điều kiện bên trong bảng tính để trực tiếp giao thông với người sử dụng. Ngôn ngữ hỗ trợ sử dụng (nhưng không tạo ra), DLL ActiveX (COM), những phiên bản về sau tăng thêm sự hỗ trợ dành cho các module, cho phép sử dụng các công nghệ lập trình hướng đối tượng cơ bản.

Những hàm tự động được tạo ra bởi VBA đã giúp Excel trở thành một đối tượng cho những virus macro. Đây là một lỗi nghiêm trọng trong Office, cho đến khi những nhà sản xuất phần mềm chống virus bắt đầu phát hiện chúng. Microsoft đã có những biện pháp phòng ngừa những cách sử dụng sai trái bằng cách thêm vào các lựa chọn: Hoàn toàn bỏ đi tính năng macro, kích hoạt macro khi mở workbook hoặc là tin tưởng những macro được công nhận bởi một nguồn đáng tin.

Từ phiên bản 5.0 tới 9.0, Excel đã có những quả trứng phục sinh, mặc dù từ phiên bản 10 Microsoft đã có những tính toán để hạn chế thậm chí hoặc xóa bỏ hẳn những tính năng không được công bố trong các sản phẩm của họ.



Phổ biến[sửa | sửa mã nguồn]


  • SUM: Tính tổng các giá trị trong các ô.

  • IF: Kiểm tra một điều kiện là đúng hay sai và trả về giá trị cho từng trường hợp.

  • LOOKUP: Dùng hàm này khi bạn cần xem một hàng hay một cột và cần tìm một giá trị từ cùng một vị trí trong hàng hay cột thứ hai.

  • VLOOKUP: Dùng hàm này khi bạn cần tìm thông tin trong một bảng hay một phạm vi theo hàng. Ví dụ, tra cứu họ của một nhân viên theo mã số nhân viên của cô ấy, hoặc tìm số điện thoại của cô ấy bằng cách tra cứu họ của cô ấy (giống như danh bạ điện thoại). Xem video này về cách dùng VLOOKUP.

  • MATCH: Dùng hàm này để tìm một mục cụ thể trong một phạm vi ô, sau đó trả về vị trí tương đối của mục đó trong phạm vi này. Ví dụ, nếu phạm vi A1:A3 chứa giá trị 5, 7 và 38, công thức =MATCH(7,A1:A3,0) sẽ trả về số 2, vì 7 là mục thứ hai trong phạm vi.

  • CHOOSE: Dùng hàm này để chọn một trong tối đa 254 giá trị dựa trên số chỉ mục. Ví dụ, nếu value1 đến hết value7 là các ngày trong tuần, CHOOSE trả về một trong các ngày khi dùng một số từ 1 đến 7 làm index_num.

  • DATE: Trả về số sê-ri lần lượt đại diện cho một ngày cụ thể. Hàm này hữu ích nhất trong những trường hợp mà năm, tháng và ngày được cung cấp bởi các công thức hoặc tham chiếu ô. Ví dụ, bạn có thể có một trang tính chứa ngày tháng theo định dạng mà Excel không nhận ra, chẳng hạn như YYYYMMDD. Dùng hàm DATEDIF để tính toán số ngày, tháng hoặc năm giữa hai ngày.

  • DAYS: Trả về số ngày giữa hai ngày.

  • FIND, FINDB: Định vị một chuỗi văn bản nằm trong chuỗi văn bản thứ hai và trả về số của vị trí bắt đầu của chuỗi văn bản thứ nhất tính từ ký tự thứ nhất của chuỗi văn bản thứ hai.

  • INDEX: Trả về một giá trị hoặc tham chiếu tới một giá trị từ trong bảng hoặc phạm vi.

Hàm tương Thích[sửa | sửa mã nguồn]


Trong Excel 2010 hoặc mới hơn, các hàm này đã được thay thế bằng hàm mới cung cấp tính chính xác đã được cải tiến, đồng thời được đặt tên khác để phản ánh tốt hơn cách sử dụng hàm đó. Bạn vẫn có thể dùng các hàm này để tương hợp với các phiên bản Excel cũ, nhưng nếu không yêu cầu tương hợp về sau, bạn nên bắt đầu dùng các hàm mới thay vào đó. Để biết thêm thông tin về các hàm mới, hãy xem Hàm thống kê (tham chiếu) và Hàm lượng giác và toán học (tham chiếu).

Nếu bạn đang dùng Excel 2007, bạn sẽ tìm thấy các hàm này trong thể loại Thống kê hoặc Toán học & Lượng giác trên tab Công thức.



Hàm CHIINV||

Trả về giá trị đảo của xác suất một đầu của phân bố khi bình phương


Hàm CRITBINOM||

Trả về giá trị nhỏ nhất có phân bố nhị thức lũy tích lớn hơn hoặc bằng giá trị tiêu chuẩn


Hàm NORMSINV||

Trả về giá trị đảo của phân bố lũy tích thường chuẩn hóa








































HàmMô tả
Hàm BETADISTTrả về hàm phân bố lũy tích beta
Hàm BETAINV

Trả về giá trị đảo của hàm phân bố lũy tích cho một phân bố beta xác định


Hàm BINOMDIST

Trả về xác suất phân bố nhị thức của thuật ngữ riêng lẻ


Hàm CHIDIST

Trả về xác suất một đầu của phân bố khi bình phương


Hàm CHITEST

Trả về kiểm định tính độc lập


Hàm CONCATENATE

Kết hợp hai hay nhiều chuỗi văn bản thành một chuỗi


Hàm CONFIDENCE

Trả về khoảng tin cậy của trung bình tổng thể


Hàm COVAR

Trả về hiệp phương sai, trung bình tích của mỗi cặp lệch


Hàm EXPONDIST

Trả về phân bố hàm mũ


Hàm FDIST

Trả về phân bố xác suất F


Hàm FINV

Trả về giá trị đảo của phân bố xác suất F


Hàm FLOOR

Làm tròn số xuống, tiến tới không


Hàm FORECAST

Tính toán hoặc dự đoán một giá trị tương lai bằng cách sử dụng các giá trị hiện có.


Hàm FTEST

Trả về kết quả của kiểm tra F-test


Hàm GAMMADIST

Trả về phân bố gamma


Hàm GAMMAINV

Trả về giá trị đảo của phân bố lũy tích gamma


Hàm HYPGEOMDIST

Trả về phân bố siêu bội


Hàm LOGINV

Trả về giá trị đảo nghịch của hàm phân bố chuẩn lô-ga-rít lũy tích


Hàm LOGNORMDIST

Trả về phân bố chuẩn lô-ga-rít lũy tích


Hàm MODE

Trả về giá trị chung nhất trong một tập dữ liệu


Hàm NEGBINOMDIST

Trả về phân bố nhị thức âm


Hàm NORMDIST

Trả về phân bố lũy tích chuẩn


Hàm NORMINV

Trả về giá trị đảo của phân bố lũy tích chuẩn


Hàm NORMSDIST

Trả về phân bố lũy tích thường chuẩn hóa


Hàm PERCENTILE

Trả về phân vị thứ k của các giá trị trong phạm vi


Hàm PERCENTRANK

Trả về thứ hạng phần trăm của một giá trị trong tập dữ liệu


Hàm POISSON

Trả về phân bố Poisson


Hàm QUARTILE

Trả về tứ phân vị của tập dữ liệu


Hàm RANK

Trả về thứ hạng của số trong danh sách số


Hàm STDEV

Ước tính độ lệch tiêu chuẩn dựa trên mẫu


Hàm STDEVP

Tính toán độ lệch tiêu chuẩn dựa trên toàn bộ tổng thể


Hàm TDIST

Trả về phân bố t Student


Hàm TINV

Trả về giá trị nghịch đảo của phân bố t Student


Hàm TTEST

Trả về xác suất gắn với kiểm tra t Student


Hàm VAR

Ước tính phương sai dựa trên mẫu


Hàm VARP

Tính toán dung sai trên cơ sở toàn bộ tổng thể


Hàm WEIBULL

Trả về phân bố Weibull


Hàm ZTEST

Trả về giá trị xác suất một đầu của kiểm tra z


Hàm khối[sửa | sửa mã nguồn]










Hàm

Mô tả


Hàm CUBEKPIMEMBER

Trả về thuộc tính chỉ số hiệu suất then chốt (KPI) và hiển thị tên KPI trong ô. KPI là một số đo có thể định lượng được, chẳng hạn như lãi gộp hàng tháng hoặc số lượng nhân viên luân chuyển, dùng để theo dõi hoạt động của một tổ chức.


Hàm CUBEMEMBER

Trả về một phần tử hoặc một bộ từ khối. Dùng để xác thực rằng phần tử hoặc bộ tồn tại trong khối.


Hàm CUBEMEMBERPROPERTY

Trả về giá trị của một thuộc tính phần tử trong khối. Dùng để xác thực rằng một tên phần tử tồn tại trong khối và trả về thuộc tính được chỉ định cho phần tử này.


Hàm CUBERANKEDMEMBER

Trả về phần tử thứ n hoặc được xếp hạng trong một tập hợp. Dùng để trả về một hoặc nhiều thành phần trong một tập hợp, chẳng hạn như người đạt doanh số cao nhất hoặc 10 sinh viên xuất sắc nhất.


Hàm CUBESET

Xác định một tập hợp phần tử được tính hoặc bộ bằng cách gửi một tập hợp biểu thức đến khối trên máy chủ, tạo tập hợp rồi trả tập hợp đó về Microsoft Office Excel.


Hàm CUBESETCOUNT

Trả về số mục trong một tập hợp.


Hàm CUBEVALUE

Trả về một giá trị tổng hợp từ khối.


Hàm cơ sở dữ liệu[sửa | sửa mã nguồn]


Hàm ngày tháng và thời gian[sửa | sửa mã nguồn]


Hàm kỹ thuật[sửa | sửa mã nguồn]


Hàm tài chính[sửa | sửa mã nguồn]


Hàm thông tin[sửa | sửa mã nguồn]


Hàm lôgic[sửa | sửa mã nguồn]


Hàm tham chiếu và tra cứu[sửa | sửa mã nguồn]


Hàm lượng giác và toán học[sửa | sửa mã nguồn]


Hàm thống kê[sửa | sửa mã nguồn]


Hàm văn bản[sửa | sửa mã nguồn]


Các hàm do người dùng định nghĩa được cài đặt với các bổ trợ[sửa | sửa mã nguồn]


Hàm Web[sửa | sửa mã nguồn]


Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]




Read More

Giải vô địch bóng đá U-17 thế giới – Wikipedia tiếng Việt


Giải vô địch bóng đá U-17 thế giới (tiếng Anh: FIFA U-17 World Cup hay trước đó là FIFA U-17 World ChampionshipFIFA U-16 World Championship) là giải bóng đá thế giới cho các cầu thủ nam dưới 17 tuổi do Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA) tổ chức. Giải lần đầu tổ chức tại Trung Quốc và đội tuyển đầu tiên vô địch là Nigeria, đồng thời Nigeria cũng là đội tuyển thành công nhất với 5 lần vô địch.




Các trận chung kết và tranh hạng 3[sửa | sửa mã nguồn]






















































































































































































Xếp hạng
Đội tuyển
Vô địch
Á quân
Hạng ba
Hạng tư
Tổng số huy chương
1
 Nigeria
5 (1985, 1993, 2007, 2013, 2015)
3 (1987, 2001, 2009)


8
2
 Brasil
3 (1997, 1999, 2003)
2 (1995, 2005)
2 (1985, 2017)
1 (2011)
7
3
 Ghana
2 (1991, 1995)
2 (1993, 1997)
1 (1999)
1 (2007)
5
4
 México
2 (2005, 2011)
1 (2013)

1 (2015)
3
5
 Liên Xô
1 (1987)



1
 Ả Rập Xê Út
1 (1989)



1
 Pháp
1 (2001)



1
 Thụy Sĩ
1 (2009)



1
 Anh
1 (2017)



1
10
 Tây Ban Nha

4 (1991, 2003, 2007, 2017)
2 (1997, 2009)

6
11
 Đức

1 (1985)
2 (2007, 2011)
1 (1997)
3
12
 Mali

1 (2015)

1 (2017)
1
13
 Scotland

1 (1989)


1
 Úc

1 (1999)


1
 Uruguay

1 (2011)


1
16
 Argentina


3 (1991, 1995, 2003)
2 (2001, 2013)
3
17
 Bờ Biển Ngà


1 (1987)

1
 Bồ Đào Nha


1 (1989)

1
 Chile


1 (1993)

1
 Burkina Faso


1 (2001)

1
 Hà Lan


1 (2005)

1
 Thụy Điển


1 (2013)

1
 Bỉ


1 (2015)

1
24
 Colombia



2 (2003, 2009)

25
 Guinée



1 (1985)

 Ý



1 (1987)

 Bahrain



1 (1989)

 Qatar



1 (1991)

 Ba Lan



1 (1993)

 Oman



1 (1995)

 Hoa Kỳ



1 (1999)

 Thổ Nhĩ Kỳ



1 (2005)




Quả bóng vàng[sửa | sửa mã nguồn]


Giải thưởng quả bóng vàng được trao cho cầu thủ thi đấu nổi bật nhất giải đấu. Nó được bầu chọn bởi giới truyền thông.


Chiếc giày vàng[sửa | sửa mã nguồn]


Giải thưởng chiếc giày vàng được trao cho cầu thủ ghi nhiều bàn nhất giải đấu. Nếu có nhiều hơn một cầu thủ ghi cùng một số bàn thắng, họ sẽ chọn cầu thủ theo số lần kiến tạo nhiều nhất trong giải đấu.


Găng tay vàng[sửa | sửa mã nguồn]


Giải thưởng Găng tay vàng được trao cho thủ môn xuất sắc nhất giải đấu.


Giải FIFA Fair Play[sửa | sửa mã nguồn]


FIFA Fair Play là giải thưởng được trao cho đội chơi đẹp nhất giải đấu và được bầu chọn bởi Hội đồng Fair Play của FIFA.





Read More